Thời kỳ phong kiến loạn lạc, nhân dân phải sống trong cảnh binh đao khói lửa, đói khát khổ đau vì sự áp bức bóc lột của ngoại bang; trong nước thì bị chế độ vua quan đè nén, khiến cho người dân nơi đây phải phiêu bạt, tha phương cầu thực ở khắp mọi nơi. Bấy giờ có một số ít hộ gia đình, phần thì bị sưu cao thuế nặng, lao dịch vất vả; phần thì quyết không cam chịu cảnh áp bức, cai trị nên phải từ bỏ nơi "chôn rau cắt rốn" của mình, gồng gánh đi tìm nơi sinh sống và đến một khu đất rộng hoang hóa để lập ấp (khu đất đó nay là Nhà ga T1- Sân bay Quốc tế Nội Bài).
Khi ấy, mới chỉ có dăm bảy hộ gia đình, nhưng họ đã biết quần tụ nhau lại để bảo vệ cái thiện, chống lại cái ác và sự khắc nghiệt của thiên nhiên thời tiết. Lúc đầu chung sống với nhau như trại, như ấp, chưa có tên làng…
Sau này trở thành nơi "đất lành chim đậu", có thêm một số gia đình thuốc các gia tộc như: gia tộc họ Lê, gia tộc họ Vương, gia tộc họ Nguyễn, gia tộc họ Ngô, gia tộc họ Trần… Trong số những người di cư lập ấp ấy, có ông Lê Huy Chước là người có tinh thần yêu nước, quê gốc ở Hà Đông, nay thuộc Thành phố Hà Nội (sau này giữ chức quan án sát tỉnh Phúc Yên). Ông Chước là người học cao biết rộng, giỏi chữ Nho nên đã phân tích "thế đất, tình dân" ở đây vừa phong quang đẹp đẽ, nhìn xa trông rộng, hội tụ được những con người hiểu biết. Từ phân tích trên, để có một cái tên cho làng, ông Lê Huy Chước đã đặt tên cho ấp là "Quảng Hội". Ấp Quảng Hội được chia thành 4 xóm: Xóm Ngoài (gọi là xóm Châu Tăng, xóm Giữa (xóm Lê Huy Chước), xóm Trên (xóm ông Đội Chín), xóm Dưới (xóm Cung Đình Vận).
Trong tuyển tập Hán-Việt của cư sĩ Thiều Chiểu – tên tác giả của cuốn sách "Thiền Sử", do Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin ấn hành năm 2002 (được tái bản lần thứ 4) có ghi rất rõ 2 từ Quảng Hội như sau:
- Quảng – có nghĩa là mở rộng, Quảng cũng có nghĩa là tên đất.
- Hội là hội họp gặp nhau. Hội là vãn hồi. Hội cũng có nghĩa là có trình độ,
thông minh, hiểu biết hơn người. Nhưng Hội cũng là do phẫn uất, không cam chịu và khuất phục sự cai trị của kẻ khác.
Như vậy, xuất xứ cái tên "Quảng Hội" do ông Lê Huy Chước đặt cho là hoàn toàn có cơ sở, mang đầy đủ ý nghĩa nội hàm cả về "thế đất – tình người" đúng như trong Từ điển Hán – Việt đã nêu. Và cái tên "Quảng Hội" ấy cho đến ngày nay luôn là niềm kiêu hãnh, tự hào của các thế hệ người dân trong thôn.
Trong suốt chiều dài gần 400 năm, kể từ khi sinh ra ấp Quảng Hội, trải qua biết bao biến cố thăng trầm của lịch sử, lúc thịnh suy, khi bi thái, nhưng Quảng Hội vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa, phong tục tập quán của một làng quê Việt Nam. Có đức tính cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, đoàn kết nỗ lực trong đấu tranh bảo vệ cái thiện, chống lại các ác và sự khắc nghiệt của thiên nhiên thời tiết, dịch bệnh... Tích cực khai phá, cải tạo ruộng đất hoang hoá trở thành những cánh đồng "bờ xôi ruộng mật" để sinh sống, tồn tại và phát triển. Ngay từ khi mới thành lập (cách đây gần 400 năm), nhân dân Quảng Hội vốn có tinh thần yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc, khi có giặc ngoại xâm, toàn dân Quảng Hội nhất tề đứng lên chống giặc, bảo vệ xóm làng.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước của dân tộc, với truyền thống "đất nghèo nuôi chí anh hùng", nhân dân Quảng Hội đã đóng góp không nhỏ sức người, sức của cho các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt nhân dân Quảng Hội đã nhường toàn bộ nơi ở và đất đai canh tác của mình để di dời lên vị trí mới cho Nhà nước xây dựng sân bay quân sự Đa Phúc, nay là sân bay Quốc tế Nội Bài với tinh thần "3 không" (không có tiền đền bù đất đai, không có phương tiện vận chuyển nhà cửa, không có hỗ trợ kinh phí tái định cư). Tấm gương biết hy sinh lợi ích riêng vì lợi ích chung của người dân Quảng Hội như biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, luôn được các thế hệ hôm nay và cả mai sau mãi mãi ghi nhớ, trân trọng và phát huy.
Với những công lao đóng góp to lớn vì nền độc lập tự do của dân tộc, Nhân dân Quảng Hội đã vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng hàng trăm huân, Huy chương các loại, cùng nhiều Bằng, Giấy khen của các cấp cho tập thể và cá nhân. Toàn thôn có trên hai chục gia đình và cá nhân được nhà nước công nhận là gia đình liệt sỹ, người có công với cách mạng và chiến sĩ tù đày. Đặc biệt, Quảng Hội vinh dự được Đảng, Nhà nước phong và truy tặng 3 Bà mẹ Việt Nam anh hùng thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Đó là các mẹ: Nguyễn Thị Chanh, Nguyễn Thị Cận và Nguyễn Thị Sáu. Truyền thống anh hùng bất khuất của nhân dân Quảng Hội đã góp phần quan trọng để xã Quang Tiến vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: "Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng, từ một xóm nghèo lạc hậu do hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh để lại. Song với tinh thần đoàn kết, lao động cần cù, sáng tạo bằng mọi nỗ lực của chính mình, nhân dân Quảng Hội đã vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, phấn đấu vươn lên xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, được đánh giá là một trong những địa phương đi đầu xã và huyện trong công tác "dồn điền đổi thửa", xây dựng nông thôn mới – nông thôn mới nâng cao – tiến tới xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu.
Quảng Hội cũng là địa phương có tỷ lệ học sinh thi đỗ đại học cao và nhiều người thoát ly công tác, hiện có trên 100 cán bộ, công nhân viên chức làm việc tại các cơ quan Nhà nước, các công ty, nhà máy, doanh nghiệp, các đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, trong đó, gần 30 đồng chí là sĩ quan quân đội và Công an nhân dân, nhiều đồng chí phấn đấu trở thành cán bộ trung, cao cấp trong Quân đội và Công an nhân dân. Trên 30 người phấn đấu trưởng thành là cán bộ cấp xã trở lên. Đời sống vật chất tinh thần của người dân trong thôn ngày càng được nâng cao, gương mặt quê hương Quảng Hội ngày càng được khởi sắc.
Sau ngày hòa bình lập lại, từ 50 nóc nhà với 5 gia tộc, dòng họ và 200 nhân khẩu, đến nay, Quảng Hội đã phát triển gần 300 nóc nhà, 19 gia tộc và dòng họ, cùng trên 1.000 nhân khẩu là một minh chứng hùng hồn về sự lớn mạnh của một làng quê dưới chân núi Sóc.
(Trích trong cuốn Hương ước làng Quảng Hội)